GS.VS.TSKH. Đặng Vũ Minh - Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (đứng bên phải) và TS. Nguyễn Quân - Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (đứng bên trái) trao giải nhất cho PGS.TS. Phạm Như Hiệp (đứng giữa).
Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là một bệnh lý phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tại các nước Âu Mỹ, đây là bệnh ung thư chiếm hàng đầu trong các ung thư đường tiêu hóa, tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 3 ở nam giới và hàng thứ 2 ở nữ giới. Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư đại tràng mới xảy ra trên toàn thế giới. Ở nước ta, ghi nhận ung thư ở Hà Nội cho thấy ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 5 ở cả hai giới sau ung thư phổi, dạ dày, gan và vú ở nữ. Tỉ lệ mắc chuẩn theo tuổi của bệnh là 7,5/100.000 dân.
PGS.TS. Phạm Như Hiệp - Chủ nhiệm đề tài cho biết, tại bệnh viện Trung ương Huế, chúng tôi tiến hành phẫu thuật nội soi phối hợp NOTES qua ngã hậu môn cho bệnh nhân ung thư trực tràng thấp từ năm 2007, và đã có báo cáo tại các hội nghị trong và ngoài nước. Chúng tôi cũng đã thực hiện thành công 20 trường hợp phẫu thuật cắt đoạn đại trực tràng qua lỗ tự nhiên (4 trường hợp qua lỗ âm đạo). Hiện nay, chưa có trung tâm nào của Việt Nam công bố đã thực hiện phẫu thuật nội soi cắt đại trực tràng hoàn toàn qua lỗ tự nhiên. Do vậy, có thể nói chúng tôi là đơn vị đầu tiên triển khai và đã làm chủ được kỹ thuật này.
Phẫu thuật nội soi qua lỗ tự nhiên cắt đại trực tràng là phẫu thuật mà tất cả dụng cụ phẫu thuật được đưa qua lỗ hậu môn hoặc âm đạo để tiến hành phẫu tích, sau đó lấy bệnh phẩm và khâu nối đều qua duy nhất con đường này mà ko cần phải tiến hành đường bụng. Điều này khác với các kỹ thuật nội soi cắt đại trực tràng truyền thống khác là hầu hết các kênh thao tác đều tiến hành từ đường bụng. Phù hợp với xu hướng hiện nay của thế giới là phẫu thuật càng ngày càng ít xâm nhập.
Cấu trúc của đại trực tràng có các đặc điểm thuận lợi cho phẫu thuật nội soi một lỗ do nó có cấu trúc hình ống dài và có thể thu nhỏ lại trong tình trạng rỗng. Những điều kiện này cho phép kéo đoạn đại trực tràng qua cổng đang dùng để phẫu thuật sau khi phẫu tích giải phóng khối u và đoạn đại trực tràng có liên quan. Trong trường hợp này sử dụng hậu môn để lấy bệnh phẩm làm giảm tổn thương phúc mạc và những biến chứng liên quan đến lỗ trocar.
Do đó, song song với nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua lỗ tự nhiên trong điều trị ung thư đại trực tràng, chúng tôi nghiên cứu ứng dụng lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên là hậu môn và nối đại tràng với ống hậu môn trong ung thư trực tràng trung gian và thấp bằng sử dụng Phẫu thuật nội soi một lỗ kết hợp kỹ thuật bọc niêm mạc hậu môn. Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
Ưu điểm của việc ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị bệnh UTĐTT là rút ngắn thời gian nằm viện, thời gian phục hồi sau mổ nhanh, người bệnh ít đau... Ngoài ra, trong một số phẫu thuật của vùng trực tràng và tiểu khung, phẫu thuật nội soi dễ dàng thao tác và quan sát tốt hơn phẫu thuật mở. Đặc biệt, trong phẫu thuật nội soi các biến chứng rất ít xảy ra và có phần thấp hơn mổ hở. Đáng chú ý, gần đây, bệnh viện đã mạnh dạn triển khai thêm các kỹ thuật mới như dao cắt siêu âm, dao hàn mạch, phẫu thuật một trô ca (1 lỗ), một đường mổ, lấy bệnh phẩm qua lỗ tự nhiên (NOTES),... nên đã hoàn thiện hơn nữa phẫu thuật nội soi trong lĩnh vực này.
Về tỷ lệ thành công của phẫu thuật nội soi UTĐTT, theo PGS.TS. Phạm Như Hiệp, nếu bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị sớm, tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi trong UTĐTT gần như tuyệt đối. Trường hợp bệnh nhân vào viện muộn, ung thư đã có biến chứng như tắc ruột, di căn... thì tỉ lệ thành công thấp hơn có khi phải chuyển sang mổ mở hoặc chỉ làm được phẫu thuật tạm thời.
Có thể nhận thấy, phẫu thuật nội soi qua lỗ tự nhiên là kỹ thuật mới tại Việt Nam trên cơ sở đã đạt được những thành tựu về phẫu thuật nội soi đại tràng. Đây sẽ là một trong những dấu mốc quan trọng của phẫu thuật nội soi đại trực tràng tại Việt Nam. Đây là thủ thuật ít xâm lấn, tận dụng các lỗ tự nhiên để đặt dụng cụ nên ít gây nên cảm giác đau cho bệnh nhân, giảm được nguy cơ nhiễm trùng và thoát vị vết mổ.
Theo PGS.TS. Phạm Như Hiệp, tác giả công trình, nghiên cứu này thành công sẽ mở ra một hướng phát triển mới trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi, đó là phẫu thuật nội soi Single Port và NOTES trong điều trị ung thư đại trực tràng, và lấy bệnh phẩm qua lỗ tự nhiên. Nghiên cứu cũng sẽ giúp khẳng định xu hướng phẫu thuật nội soi Single Port và NOTES là xu hướng hoàn toàn khả thi và hiệu quả trong điều trị ung thư đại trực tràng, góp phần với các trung tâm lớn trên thế giới đánh giá chính xác tính khả thi và hiệu của phẫu thuật nội soi Single Port và NOTES trong điều trị ung thư đại trực tràng.
Với kỹ thuật này, Bệnh viện Trung ương Huế và các bệnh viện trên toàn quốc sẽ có thêm một phương pháp mới, có hiệu quả, an toàn,.... để lựa chọn trong điều trị ung thư đại trực tràng. Hy vọng sẽ mang lại lợi ích cho cơ sở ứng dụng kết quả nghiên cứu và cho cả bệnh nhân. Về phía cơ sở sẽ nâng cao uy tín, chất lượng điều trị; về phía bệnh nhân sẽ giảm chi phí điều trị, ít biến chứng, thời gian nằm viện ngắn, thẩm mỹ cao...