Gan nhiễm mỡ không do rượu - Nên tầm soát sớm
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu đang là nguyên nhân phổ biến nhất của các xét nghiệm chức năng gan bất thường (LFTs) ở Anh Quốc. Gan nhiễm mỡ là hiện tượng tích tụ lượng mỡ nhiều hơn từ 5-10% cân nặng của gan bao gồm các triglycerides, acid béo, phospholipids, cholesterol ở người không tiêu thụ quá nhiều rượu (<20 g / ngày cho phụ nữ và <30 g / ngày đối với nam). Mức độ nghiêm trọng trong phạm vi từ nhiễm mỡ đơn giản (chất béo mà không viêm gan đáng kể hoặc bị thương tế bào gan) đến chứng gan nhiễm mỡ (chất béo với chấn thương tế bào gan và viêm gan) và cuối cùng là xơ hóa và xơ gan.

 Gan nhiễm mỡ không do rượu - Nên tầm soát sớm

 

Gan nhiễm mỡ không do rượu (GNMKDR) được mô tả lần đầu vào năm 1980 và kể từ đó nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy hậu quả nghiêm trọng của bệnh đối với cá nhân cũng như xã hội. Mặc dù tỷ lệ chính xác của GNMKDR ở Anh không được biết, các nghiên cứu dân số từ Mỹ và Trung Quốc sử dụng các phương thức hình ảnh chính xác nhất cho chẩn đoán gan nhiễm mỡ(cộng hưởng từ) ước tính có khoảng 28-31% dân số nói chung có  gan nhiễm mỡ và 8% có một transaminase alanine cao (ALT) do GNMKDR. GNMKDR thường cùng tồn tại với các bệnh gan khác như viêm gan C, viêm gan mạn và bệnh gan do rượu và đã được chứng minh là gây ra bệnh gan tiến triển. 7-9% dân số Hoa kỳ được chẩn đoán GNMKDR qua sinh thiết gan. Đa số bệnh nhân ở vào độ tuổi từ 40 - 60 tuổi. Nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở trẻ em trên 10 tuổi và tỉ lệ mắc bệnh ở nữ cao hơn nam. Theo ước tính  của U. Ariz,  có khoảng 5% dân số bị GNMKDR và 20% trong số đó bị thừa cân. Con số này theo nghiên cứu của B. Orlik là 17-33% dân số các nước đã phát triển. Còn theo Amarapurkar, tỷ lệ hiện mắc ở khu vực châu Á Thái Bình Dương dao động từ 5-30 %. Theo một thống kê ở Nhật Bản, có khoảng 10% bệnh nhân bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có biểu hiện viêm gan. Ở nhiều nước châu Á khác như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia…, tỷ lệ GNMKDR cũng đang ngày càng tăng lên cùng với sự du nhập  lối sống phương Tây.

Người ta chưa xác định được nguyên nhân chính xác của GNMKDR. Tuy nhiên, bệnh thường gặp hơn ở những người bị đái tháo đường, béo phì và đề kháng insulin. Khi nghiên cứu trên 1266 bệnh nhân từ 2004-2008, Neuschwander-Tetri và cs nhận thấy có 49% bị THA; 31% bị ĐTĐ týp 2.

Ở Việt Nam chưa có thống kê về số người mắc GNMKDR trong cộng đồng nhưng theo các nghiên cứu gần đây: nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuyến tại Bệnh viện đa khoa (BVĐK) Huế 2008 và Huỳnh Thị Bích Thủy BVĐK Cần Thơ 2010.. cho thấy tỷ lệ GNMKDR với các rối lọan men gan , mỡ máu, đường huyết lúc đói ngày một tăng có thể lên tới 90% tăng mỡ máu LDL-C do nhu nhập lối sống phương tây( tỷ lệ tăng cân béo phì ở Việt Nam hiện nay khỏang 20-30%.

Đề tài nghiên cứu về bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu  (GNMKDR) chưa được thực hiện tai khu vực miền  Đông Nam Bộ trong những năm gần đây. Hiện nay, gan nhiễm mỡ là một bệnh hay gặp nhất  ở những người thừa cân, quan niệm bệnh tiến triển lành tính không còn đúng. Tính thiết thực của đề tài muốn khẳng định các tổn thương đi kèm: tăng men gan, rối loạn mỡ máu, tăng đường huyết lúc đói  và  hậu quả cuối cùng là xơ gan ở bệnh nhân GNMKDR trên cơ sở đó có hướng tầm soát bệnh  cũng như điểu trị sớm các biến chứng.

Đa số những người bị GNMKDR đều cho rằng họ khỏe mạnh và họ không có ý thức được rằng gan đã có vấn đề. Thời gian gần đây tại Bệnh viện đa khoa Thống Nhất số bệnh nhân khỏe mạnh, không uống rượu hoặc uống không đáng kể đi khám tổng quát, khám sức khỏe định kỳ có rất nhiều người bị gan nhiễm mỡ kèm theo các rối lọan: tăng men gan, rối loạn mỡ máu, tăng đường huyết lúc đói.

gan

Giải phẫu của gan ở người bình thường và nhiễm mỡ

Vì vậy, tác giả BS. Thái Thị Dịu đã nghiên cứu đề tài này trên bệnh nhân GNMKDR với mục tiêu sau: “Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, nồng độ men gan,  mỡ  máu và đường huyết  lúc đói ở bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu” với mục tiêu : (1) Đánh giá các  triệu chứng lâm sàng thường gặp; (2) Tỷ lệ gan nhiễm mỡ phân theo độ, sự biến đổi của nồng độ men gan, mỡ trong máu và đường huyết lúc đói ở các bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu; (3)  Mối liên quan giữa mức độ gan nhiễm mỡ với các nồng độ men gan, mỡ máu và đường huyết lúc đói.

Nghiên cứu được thực hiện  trên 138 bệnh nhân: tuổi trung bình 52  ±12, mắc bệnh GNM nữ cao hơn nam (68.1% so 31.9%), qua đó cho thấy:

Đặc điểm lâm sàng của gan nhiễm mỡ không do rượu:  Các triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất:  mệt mỏi và đau tức hạ sườn phải 28.3%; triệu chứng gan to 2.17%.

Về các tỷ lệ:

- Mức độ gan nhiễm mỡ: độ 1 65.2.%, độ 2 30.4% và độ 3 là 4.4%.

-Trị số trung bình men gan SGPT 39.44±20.53U/L, SGOT 46.13±26.67U/L. Tăng men gan từ 2-5 lần  SGPT là 2.9% và SGOT là 16%.

 - Mỡ máu: Tăng Cholesterol 71.7%, Triglycerit 89.1% và LDL-C 80.4%.

- Đường huyết lúc đói: Rối loạn đường huyết lúc đói 53.6%

Các mối liên quan:

-Nồng độ men gan SGOT, SGPT tăng dần theo mức độ gan nhiễm mỡ có ý nghĩa thống kê

-Nồng độ đường huyết lúc đói tăng theo mức độ gan nhiễm mỡ có ý nghĩa thống kê

 - Ba mức độ gan nhiễm mỡ   đều có sự  gia tăng đáng  kể nồng độ các thành phần Cholesterol, Triglycerit, LDL-C từ gan nhiễm mỡ độ 1 lên độ 2 và 3 có ý nghĩa thống kê

Từ kết quả này tác giải khuyến nghị, trong thời gian tới chúng ta nên tầm soát sớm các rối loạn đi kèm ở những bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu khi khám sức khỏe định kỳ để phòng ngừa bệnh phát triển cũng như điều trị kịp thời.

 
 

 

Các tin, bài khác